Vừa ghé qua diễn đàn bên phòng GD TC thấy có bài viết về chủ đề này của thầy Phan Bá Tiến hay quá nên post lên mọi người đọc nhé!
TRAI CÁT NGẠN
Quần tụ bao đời nay, một bên là dãy Trường Sơn hùng vĩ với Tháp Bút uy nghi, một bên là sông Lam dạt dào sóng nước, tự bao đời nay, người Cát Ngạn xây làng, lập ruộng, tạo dựng cơ nghiệp cho con cháu muôn đời. Những tên đất, tên làng như Đức Nhuận, Làng Hoa, Cao Điền, Tiên Hội, Văn Chấn, Đạo Ngạn vv...
đã trở nên rất đỗi thiêng liêng, gần gũi với bao người con Cát Ngạn dù đi xa hay ở lại. Người đi thì nhớ, người ở thì thương, thương cho mảnh đất nghèo nhọc nhằn sỏi đá, thương cho bờ tre rạc nắng gió Lào vẫn kẽo kẹt ru giấc em thơ, thương những câu ca dao, tục ngữ quê hương... và thương những người con trai, con gái làm rạng rỡ đất nghèo. Trong những cái thương cái nhớ đó, không hiểu tại sao, chiều nay, trên bến đò Cung bên dòng sông Lam, tự dưng tôi bỗng thương cho nghững người con trai Cát Ngạn quê tôi. Lẽ thường, đáng ra không phải thế, vậy mà cứ phải thế.
Không biết tự bao giờ, câu tục ngữ “Trai Cát Ngạn, gái Đô Lương” đã có mặt trong kho tàng tục ngữ dân gian, để người dân cả nước khát khao muốn biết đến quê tôi như tôi đã hằng mong ước có được ngày được đến Yên Thế để ngắm những chàng trai Cầu Vồng mãnh mẽ “hùm thiêng” như Đề Thám; đến Nội Duệ, Cầu Lim để nghe các cô gái vùng Kinh Bắc duyên dáng và tình tứ hát câu quan họ. Câu tục ngữ đã đưa người dân quê tôi vượt bao “cách núi, ngăn sông” mà bước chân vào đời sống văn hoá đất nước. Vậy mà tôi, một người trai Cát Ngạn cũng chưa hiểu được “Trai Cát Ngạn...” khác gì với trai mọi nơi. Là ngang tàng, ngỗ ngược; là thẳng thắn, bộc trực; là gan dạ, dũng cảm; là thông minh, tài giỏi; là lãng tử, phong tình, là... có thể là tất cả chăng? Không biết người đặt ra câu tục ngữ khen hay chê “trai Cát Ngạn” nhưng cái cách đem “gái Đô Lương” ra mà so sánh thì ý hẳn những chàng trai Cát Ngạn quê tôi đã sung sướng lắm rồi. Chỉ cách nhau con sông Lam, những chàng trai Cát Ngạn, những cô gái Đô Lương có biết bao cơ duyên gặp gỡ rồi để thương, để nhớ cho nhau. Với người dân quê tôi, gái Đô Lương bao giờ cũng được nể trọng. Cũng có lẽ, cái lý do cô vợ “thương anh” để rồi “ngăn anh không đi chuyến ngược Lường” trong câu hát dặm là cô ta sợ “thấy gái Đô Lương, anh thương, anh nỏ muốn về”. Ấy là tôi cứ mong muốn thế, hoặc giả mong cho mọi người hiểu thế.
Nói trai Cát Ngạn ngang tàng, ngỗ ngược, gan dạ và dũng cảm để sánh với gái Đô Lương chua ngoa nồng nàn hẳn cũng có cái lý. Ít có trai nơi nào giống trai Cát Ngạn quê tôi. Nhiều cụ già 80, 90 tuổi đến nay vẫn rùng mình mỗi khi nhớ lại lễ hội ném đá ở rú Treo (Cát Văn) chiều mồng 5 tháng 5 âm lịch. Thật khó tưởng tượng một lễ hội như thế trong ngày Tết Đoan Ngọ tưởng nhớ Khuất Nguyên, nhà thơ nước Sở cách xa hàng nghìn năm bên Trung Quốc. Nếu Nguyễn Du đi qua, chắc hẳn ông đã phải đọc câu: “Hồn hề, hồn hề, nại bất quy” để hồn Khuất Nguyên khỏi trở về chứng kiến cảnh tượng hãi hùng đó. Vậy mà những chàng trai Cát Ngạn giữa hai làng chẳng thù oán gì nhau, cứ thế, đá củ đậu trong tay, ném nhau đến toạc đầu chảy máu, thậm chí đến chết. Tục ném đá ấy, chỉ đến ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mới chấm dứt nhưng dư âm của nó còn kéo dài mãi đến sau này. Những đám trẻ chăn trâu thường lấy gò, đồi, bãi sông... làm chiến trường. Những trận ném nhau được bài binh bố trận như đánh giặc... Tính cách dũng cảm, gan dạ (thậm chí gan lì) như thế được trai Cát Ngạn ra trận mang theo như một hành trang tinh thần truyền thống của quê hương. Trai Cát Ngạn tự hào với một anh hùng không quân Nguyễn Ngọc Độ cưỡi Mic 17 kiêu hãnh nghênh chiến với lũ Con Ma, Thần Sấm của giặc Mỹ giữa bầu trời; một Đặng Đình Hồ con nòi nhà nông, chân chất, bộc trực hai lần anh hùng trong chiến tranh vệ quốc; một Nguyễn Ngọc Lài, hai lần anh hùng nhờ thành tích “chặt rừng”, và “trồng rừng”. Những chàng trai như thế thật nhiều. Mặc dù ở với mẹ cha thì chăn trâu, cắt cỏ nhưng đến khi bước vào đời thì làm cho bạn bè nể phục và kẻ thù khiếp đảm. Nhớ lại chuyện xưa, cụ nghè Nguyễn Thế Bình ở làng Đạo Ngạn hành xử với “cậu trời” Đặng Mậu Lân đã chẳng mang tính cách ấy là gì?
Nếu tính cách người Nghệ trong tương quan với cả nước thẳng thắn, bộc trực bao nhiêu thì có lẽ, người Cát Ngạn trong tương quan với người Nghệ cũng thẳng thắn, bộc trực bấy nhiêu. Tính cách ấy hiện vẫn rất rõ trong xử sự hàng ngày của người Cát Ngạn mà những trai Cát Ngạn điển hình. Con trai quê tôi dù sống nơi đâu vẫn mang cái cốt cách đó:
Đã nói khi nào cũng nói to
Đã nhìn ai thì nhìn thẳng mặt
Biết bao nhiêu bận bị mất lòng
Đánh chết cũng không chừa thói tật
(Chồng Nghệ- Nguyễn Bùi Vợi)
Còn nói trai Cát Ngạn thông minh, học giỏi để sánh với gái Đô Lương đẹp người, tháo vát hẳn cũng không sai. Nơi đây, ông nghè Đinh Nhật Thận (1814-1866) quê ở Thanh Tiên được mời làm thầy dạy cho Thái tử và Hoàng tộc thời vua Tự Đức. Với khúc “Thu dạ lữ hoài ngâm”, ông nghè họ Đinh đã đóng góp vào lịch sử thơ ca dân tộc như một sáng tạo độc đáo với thể thơ thất ngôn, lục bát bằng chữ Hán. Thông minh, học giỏi, trai Cát Ngạn đang sống ở mọi miền Tổ quốc và ở nước ngoài đang lấy trí tuệ cống hiến và làm giàu cho mình và cho quê hương đất nước. Chàng trai Võ Văn Hồng, dòng dõi nhà Nho, đã tỉnh táo nhìn ra vận hội mới cho mình và bà con người Việt trong thảm hoạ tan rã của Liên Xô. Trí tuệ của một Tiến sỹ Kinh tế đã giúp anh chuyển bại thành thắng, chuyển nguy thành an cho mình và bà con người Việt mình. Giờ thì cái Công ty thương mại Bến Thành của anh ở Mat- xcơ-va mang lại công ăn việc làm của biết bao con người, gửi về bao nhiêu ngoại tệ cho đất nước. Và anh, người con hiếu thảo, biết thế nào là thiếu, là đủ với mình để mang tiền của đi làm việc nghĩa. Những món tiền của anh giúp bao người dân Phong Đình có điện sáng cho trẻ học bài, có nước cho đồng lúa thêm xanh, có đường cho xóm thôn khỏi lầy lội... Không dừng lại đó, anh đầu tư tiền của vào xây trường học, nơi khởi nguồn cho tương lai bao người. Giờ đây, đi trên đất Thanh Chương, nghe người dân nói chuyện Tiến sĩ Võ Văn Hồng mà lại càng thêm tự hào cho quê hương Cát Ngạn có một người con trai như thế. Những ngôi trường lững lững, những nhà học thực hành vv... ở Thanh Chương I, Thanh Chương III... như một sự tri ân của người con quê hương với mảnh đất đã nuôi mình khôn lớn, trưởng thành. Nếu kể về trai Cát Ngạn thành đạt còn phải kể đến một Nguyễn Cảnh Sơn. Anh lẳng lặng làm việc và cống hiến. Một bệnh viện đa khoa Chợ Chùa ba tầng khang trang trên đất Cồn Bì chưa phải đã là tất cả những gì anh đóng góp cho hương.
Trai Cát Ngạn còn bao nhiêu những người con đã và rồi sẽ như Võ Văn Hồng, Nguyễn Cảnh Sơn vv..., những người con đem lại vinh quang cho gia đình, dòng họ, những người con biết nghĩ cho tương lai của quê hương đang miệt mài trên giảng đường đại học, trong các viện nghiên cứu; hoặc là giám đốc một nhà máy, một công ty...; hoặc là trưởng một đầu ngành này nọ. Hiện chưa có thống kê đầy đủ nhưng tôi biết là rất nhiều, rất nhiều. Rồi đây, những người con Cát Ngạn đi xa, ngoài chuyện liên lạc đồng hương xã, đồng hương huyện, tôi nghĩ, những người trai Cát Ngạn cũng cần có sự liên lạc. Một sự liên lạc để làm vẻ vang cho quê hương hẳn cũng có ích lắm chứ!
Viết đến đây, tôi chợt nhớ đến một anh bạn cứ hay trêu tôi là “trai Cát Ngạn” có số phong tình, đào hoa. Tôi thì tôi nghĩ, cái số đào hoa thì phải để chị em phụ nữ nhận xét nhưng chắc chắn tôi là trai Cát Ngạn. Ngang, tôi không ngang được như nhiều người; giỏi, tôi cũng không giỏi được như nhiều người. Chỉ có cái thẳng, tôi thẳng được như bao người. Tôi nói thẳng ra rằng: Tôi là trai Cát Ngạn. Ba tiếng “trai Cát Ngạn” luôn vang lên trong tôi niềm kiêu hãnh vinh vang./.
Phan Bá Tiến